Mười Năm Ngày Nhạc Sĩ Khánh Băng Ra Đi, Sầu Đông Nào Vẫn Chưa Tan
(trích bài viết của Trần Quốc Bảo đăng trong tuần báo Việt Tide phát hành ngày thứ sáu 6 tháng 2 năm 2015)
Mùa Xuân, ngày Tết.. người Việt Nam nào cũng mong chờ tin vui đến với nhà mình. Nhưng với giới nhạc sĩ quê nhà trước 1975, cái Tết 2005 là một nỗi buồn không nhỏ khi nhận được tin Khánh Băng, tác giả của rất nhiều ca khúc nổi tiếng như Vọng ngày xanh, Tiếng mưa rơi, Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Nếu một ngày, Người lính chung tình, Vườn tao ngộ, Chiều hoang, Đôi ngã chia ly.. đã trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng vào đúng ngày mùng 1 Tết âm lịch Ất Dậu 2005, tức ngày 9 tháng 2 dương lịch, hưởng thọ 70 tuổi. Khánh Băng tên thật Phạm Văn Minh, sinh ngày 25 tháng 12 năm 1935 tại Thắng Tam, thị xã Vũng Tầu. Nghệ danh của Ông ghép từ tên 2 cô bạn thân, một tên Khanh, một tên Băng, thêm dấu sắc tên đầu, từ đó có tên Khánh Băng.
Mất đúng ngày đầu năm, gia đình nhạc sĩ Khánh Băng phải để lui một, hai ngày sau mới thông báo đến thân nhân và bằng hữu xa gần. Người biết tin buồn này đầu tiên ở Mỹ là nhạc sĩ Quốc Dũng, lúc đó Anh vẫn còn đang du lịch tại Hoa Kỳ. Quốc Dũng sau đó đã báo tin ngay đến người viết cùng Thanh Mai, Nguyễn Đức Cường, Nhật Ngân, Phương Hồng Quế.. Lập tức, Trần Quốc Bảo đã liên lạc ngày với 2 ca sĩ Thanh Thúy (Sacramento), Diễm Hương.. Sau đó hai nghệ sĩ này và người viết đã cùng với Quốc Dũng, Nhật Ngân, Nguyễn Đức Cường, Thanh Mai, Phương Hồng Quế.. gửi ngay một số tiền đến gia đình Khánh Băng để phụ phần ma chay tang lễ.
Giữa người viết và Khánh Băng kỷ niệm khá nhiều với biết bao nhiêu buổi ăn trò chuyện từ năm 1993 cho đến 2003.. Suốt mười năm ấy biết bao nhiêu tình.. Thật vậy! Những buổi trưa hè tại Giòng Suối Xanh, một nhà hàng nhỏ bên bờ sông Thanh Đa, hoặc tại quán 38 Đồn Đất do chị ruột ca sĩ Duy Thanh làm chủ. Mỗi lần tụ tập đông đảo nhạc sĩ Saigon cũ như vậy, cả nhóm phải kéo hết lên lầu để tự do tâm sự.. Tiếng cười, tiếng nói.. của những mái đầu giờ đây đã bạc mà trái tim âm nhạc hình như vẫn còn luôn xanh mãi. Nhưng hình ảnh làm tôi vương vấn, đó là lần Trần Quốc Bảo tổ chức buổi hội ngộ 75 gia đình nhạc sĩ quê nhà tại khách sạn Hương Việt, hình ảnh của 3 nhạc sĩ Khánh Băng, Đỗ Thu, Nguyễn Hữu Thiết.. đôi mắt tinh anh ngày nào của 3 người giờ đây đã mù lòa ngồi bên nhau cùng nhắc bao kỷ niệm vui buồn một thuở.. Đôi mắt họ lúc đó chẳng còn thấy được gì ngoài những nẻo đường ký ức với những khuôn mặt bạn bè người đi, kẻ ở.
Trong những lần trò chuyện cả đêm, Khánh Băng kể người viết nghe nhiều giai thoại lý thú về cuộc đời Ông.. Có nhiều việc đồng nghiệp, người đọc đã biết, nhưng cũng có những mẫu chuyện Ông chưa hề tiết lộ. Mời bạn đọc nghe chuyện lòng của nhạc sĩ Khánh Băng qua những lần Ông tâm sự khoảng năm 1995.. ..
“Từ thuở nhỏ tôi đã yêu thích âm nhạc nên tự luyện đàn Mandolin. Đã từng hợp tác với anh Đoàn Kỳ Quận dàn dựng, tập luyện và trình diễn với các em học sinh trong những buổi cắm trại và những buổi lễ bãi trường. Từ năm 1948, lúc 14 tuổi, tôi đã tập sáng tác. Sau khi hoàn thành bản nhạc nào, tôi liền gửi lên Saigon cho anh Võ Đức Thu. Tôi quen anh Võ Đức Thu qua sự giới thiệu của người bạn tôi và cũng là em của anh Võ Đức Thu là Võ Đức Hảo. Sau khi sửa chữa những chỗ sai sót, anh Võ Đức Thu còn ghi chú thêm những luật lệ về sáng tác. Sau đó, Ông mới gửi trả về Vũng Tầu cho tôi bằng những bao thư có dán tem sẵn. Nói về mặt sáng tác, đây là lối học hàm thụ mà tôi đã được Ông Võ Đức Thu chỉ dẫn và khuyến khích rất nhiều.
Sau mùa Hè năm 1949, tôi phải lên Saigon học trường Huỳnh Khương Ninh (Đa Kao) vì lúc đó ở Vũng Tầu không có bậc Trung học. Năm 1954, vì có sự khuyến khích của bạn bè, tôi tham dự trong cuộc tuyển lựa Tài Tử ở Saigon tổ chức tại rạp Nam Việt. Sau đó tôi được tuyển chọn làm nhạc công ở Đài phát thanh Saigon với cây đàn Mandolin. Vì tôi sáng tác rất nhiều nên không thể nhớ được bản nhạc nào là bản nhạc đầu tiên.. nhưng có một kỷ niệm mà tôi không bao giờ quên, đó là chiều ngày thứ ba 15 tháng 3 năm 1955 trong chương trình thường trực của Đài phát thanh Saigon, nhạc phẩm đầu tiên của tôi được trình diễn, đó là bài Nụ Cười Thơ Ngây với hai giọng hát Minh Trang và Anh Ngọc. Vì nhận thấy với cây đàn Mandolin không thể phát huy tối đa bằng cây đàn guitar nên tôi bắt đầu tập khổ luyện thêm đàn guitar từ năm 1953-1954 theo phương pháp methos Caroly.
Năm 1955, tôi gia nhập ban Sầm Giang của anh Trần Văn Trạch và ban kịch Dân Nam của Anh Lân và chị Túy Hoa với sự giới thiệu của Tùng Lâm. Từ năm 1955-1959 tôi thường xuất hiện trên các sân khấu Đại Nhạc Hội và phụ diễn ca nhạc với tiết mục độc tấu guitar thùng. Năm 1960 tôi chuyển qua guitar điện và biểu diễn hàng đêm tại các phòng trà ca nhạc do tôi làm chủ trong khu giải trường Thị Nghè.
Năm 1962, nhờ sự giới thiệu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với hãng dĩa Sóng Nhạc, dĩa nhạc đầu tiên của tôi ra đời với những ca khúc do tôi sáng tác như Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Lưu luyến, Đêm cô đơn.. Thành phần ban nhạc lúc bấy giờ gồm có Khánh Băng, Phùng Trọng, Dương Quang Định và Dương Quang Lê Minh. Vào năm 1964, ban nhạc của tôi là ban nhạc trình diễn trước tiên trong dịp lễ khai trương của Đài Truyền Hình VN. Năm 1966, ban nhạc của tôi với thành phần Khánh Băng, Phùng Trọng, Nguyễn Ánh 9, Duy Khiêm cùng với 2 nữ ca sĩ Mary Linh và Phước Vân được trao tặng Huy Chương Vàng do Hội ký giả tổ chức tạp rạp Quốc Thanh.
Năm 1967 vì là ban nhạc thường trực của Đài Truyền Hình nên ban nhạc tôi có sự thay đổi: Khánh Băng, Phùng Trọng, Nguyễn Thành (saxo, Tenor), Thôi Phước (trumpet), Sầm Sơn (guitar bass). Từ tháng 3 năm 1973, tôi sang lại nhà hàng kiêm vũ trường Hawaii lầu 4 số 6 đường Bùi Viện để tự khai thác biểu diễn hàng đêm cho đến ngày 20 tháng 3 năm 1975 thì bị đình chỉ hoạt động vì tình hình an ninh chung.
Cuối năm 1991, tôi bắt đầu sáng tác trở lại cho đến nay (LTS – khoảng năm 1995) đã được 156 bài. Trong số này, có nhiều bài đã được phổ biến tại thị trường Việt Nam khoảng 70 bài và một số ít ở thị trường hải ngoại. Hơn 50 năm phục vụ văn nghệ trong lĩnh vực sáng tác, tôi không nhớ chính xác là mình đã viết bao nhiêu bài, “nói 500 thì quá ít, mà 1000 lại hơi nhiều”.
Năm 1967, tôi được mời vào Hội S.C.A.C.E.M Paris với 2 nhạc phẩm Johnny Mon Amour tức Sầu Đông và Vọng Ngày Xanh với lời Pháp của nữ văn sĩ Francois Sagan viết lời Pháp. Từ năm 1966-1970, ban nhạc của tôi trình diễn trong hầu hết các Club Mỹ tại Saigon, căn cứ Long Bình, phi trường Biên Hòa, căn cứ Long Thành, căn cứ Phú Lợi”..
Những lời tâm sự của Ông với tôi ngày đó đến nay cũng đã 20 năm rồi. Khánh Băng là một nhạc sĩ tài hoa, đức độ từ lúc bước chân vào làng âm nhạc. Mười mấy năm sau cùng, đôi mắt Anh bị mù lòa, đi đâu cũng phải có người chở. Mộng ước cuối đời của Khánh Băng là được sang Hoa Kỳ thăm thân nhân và bằng hữu, nhưng vì hoàn cảnh tài chánh cũng như thủ tục giấy tờ quá chậm chạp rắc rối, thành thử niềm mơ ước đó mãi mãi chẳng bao giờ đạt được.
Trước hai tháng Ông từ trần, Ông tổ chức sinh nhật mình ngày 25 tháng 12 năm 2004 ngay tiệm Phở của Giao Linh với sự tham dự của nhiều bạn bè thân như Châu Kỳ, Mặc Thế Nhân, Quốc Dũng, Hoàng Trang, Đài Phương Trang, Trang Mỹ Dung, Tú Trinh, Lan Ngọc, Hồng Vân, Đào Hoa Nữ.. ngay tối hôm đó, Ông bị té cầu thang và gẫy tay.
Một nén nhang xin được thắp lên tưởng niệm nhớ về Ông, cũng như nhớ về những ca khúc của Khánh Băng, còn có những biệt hiệu khác như Anh Minh, Nhật Hà.. Mười năm đã qua, mỗi khi cơn gió lạnh cuối Đông thổi sầu về, lại nhớ đến sinh nhật 25 tháng 12 của người.. Ôi 10 năm khuất bóng Khánh Băng, sầu đông nào sao vẫn chưa tan..
Ngưỡng mộ Ông, đã để lại cho đời những bài ca bất hủ!