Vào năm 1964 Anh Việt Thu từ Sài Gòn lên Tây Ninh dạy học ở trường Nam (nay là trường THPT Trần Hưng Đạo). Có thể nói ông là người đầu tiên đưa âm nhạc vào học đường thời ấy. Lớp học trò bây giờ ở tuổi ngũ thập tri thiên mệnh còn nhớ bài hát valse ngọt ngào thầy Thu dạy: ”Giòng An Giang sông sâu nước biếc, Giòng An Giang cây xanh lá thắm, lả lướt về qua Thất Sơn… Giòng An Giang đáy nước in sâu, nhịp cầu tre ngắm bóng say sưa, nắng vẫn chiếu trên làn nước nhấp nhô… Đây những người thôn nữ xinh duyên dáng chuyền tay dắt nhau múc mấy vầng trăng đổ đi…”.
Ông dạy nhạc có những nét độc đáo khó quên, lúc ngẫu hứng cùng thầy đi bộ từ chợ cũ – thị xã (nơi ông thuê nhà luật sư Định) xuống dốc sương mù Mít Một vào khu vườn sầu riêng của hai người bạn tên Muông-Trâm để vui chơi ca hát. Lương bổng thời đó rất khá (tương đương một chiếc xe Honda Nhật) nhưng do tánh nghệ sỹ nên cũng túng thiếu dài dài, có lần ông phải bán chiếc radio 3 band để trả tiền thuê nhà. (Nêu nhớ thời đó có cái radio là quý, nghệ sỹ càng quý hơn vì để nghe nhạc của mình.) Đời nghệ sĩ là vậy, xưa thi sĩ Hàn Mặc Tử từng than: “Gió trăng có sẵn làm sao ăn?”.
Ông là một trong những người đưa âm điệu nhẹ nhàng bình dân vào nhạc cùng với các nhạc sĩ Trúc Phương, Châu Kỳ, Minh Kỳ, Lam Phương… (như điệu boléro, ballade, habanera…) và đã từng đỗ hạng ưu khóa I Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn.
Anh Việt Thu sinh năm 1939 có tên thật là Huỳnh Hữu Kim Sang quê ở An Hữu – Cái Bè (Tiền Giang). Nghệ danh này theo lời của Vũ Anh Sương (làm thơ – bạn Anh Việt Thu) xuất phát từ câu chuyện gia đình: tên Việt Thu là em trai của ổng, do ổng phải bảo bọc người em nên đặt tên như thế để nhớ trách nhiệm của mình: anh của Việt Thu. Ông hoạt động văn nghệ ở Sài Gòn vào những năm 60 cho tới phút lân chung.
Những bài hát của ông đã quá quen với quần chúng: Đa Tạ, Người Ngoài Phố, Tám Điệp Khúc, Hai Vì Sao Lạc… Và sau này khá nhiều bài thơ của người bạn thân – nhà thơ Thiên Hà rất thịnh hành quen thuộc với người yêu nhạc như bài: Nhớ Nhau Hoài (Duy Khánh ca): “…Em ở nơi nào có còn mùa xuân không em, rừng ngàn lá gió từng đêm nhắc nhở thì thầm. Nắng ở trên đầu nắng trong lòng phố, gió ở trên non gió cuốn mây về…”. Hay bài Gió Về Miền Xuôi: “Gió về miền xuôi anh đưa em cuối nẻo cuối đường, gió đầu non gió lọt đầu ghềnh, đường em đi đường nở hoa khắp luống cày…” hoặc bài “Xa Dấu Ngựa Hồng” Thanh Lan ca: ”…xin kỷ niệm làm hoa dưới bước chân đi – xin kỷ niệm làm hoa nến thắp trên mi…”. Đến giờ vẫn còn nhiều người hát, trình diễn, thu đĩa…
Âm nhạc Anh Việt Thu mang đậm tình quê hương dân tộc, khát vọng hòa bình rất chân thành: ”Tôi xin đa tạ ngày nao súng phải lạnh lùng nắng hạ vàng rơi phủ bờ vai, lời ai ru gió hiu hiu buồn… Tôi xin đa tạ lời ca tiếng ru êm đềm ôi lời ca đã xua chinh chiến. Xin đa tạ mẹ quê vất vả thật thà…” (Đa Tạ)
Trong một dịp xuống Cẩm Giang chơi (năm 2005), tôi được Vũ Anh Sương cho xem bức thư Anh Việt Thu gửi khi sáng tác xong bài này, lời thư rất cảm động: “Mình vừa sáng tác xong 2 bài, độ trung tuần tháng tư trở đi cậu đón nghe đó là Chân dung và Đa Tạ. Hiện mình chưa in ronéo, cuối tháng tới mình in luôn, cậu nhớ mua cái radio nho nhỏ nghe nhạc mình xem sao? Mình vẫn sống vất vưởng cù bất cù bơ…” (thư đề ngày 31-03-1966).
Cũng vào thời ấy, ông phổ một bài thơ của thi sĩ Trường Anh (một nhà giáo ở Gò Dầu). Bài Mưa Đêm Nay:
“Thăm thẳm đường trường tôi người cô độc/ Mòn gót giầy trọ quán đêm nay/ Mưa Cẩm giang như niềm đau ai khóc/ Đường sụt sùi qua mấy nẻo truồng lầy…/ Cho cốc cà phê cô hành xanh tóc/ Miệng em cười nhạt đắng chở màu cay/ Cẩm Giang ơi đây ngày xưa trách móc/ Xiềng khua chân rổn rảng kiếp đi đầy/ Lớp hưng phế xô nghiêng nhà tróc nóc/ Mồ của ai nằm trăng lạnh gió lay…”.
Bài này đa số lớp cựu học sinh tuổi U50 Tây Ninh đều thuộc qua tiếng hát của nữa ca sĩ Hoàng Oanh làm mê đắm long người, đưa sông nước Cẩm Giang đi vào huyền thoại.
Năm 1972 ông là một trong 12 nhạc sĩ du ca Việt Nam có mặt trong tuyển tập nhạc hát cho những người sống sót – (Bút Nhạc XB 1973) ông đã viết: “Một ngày Việt Nam thơm lừng hòa bình, một ngày Việt Nam bay tràn thế giới…”.
Đến năm 1975 ông qua đời trước buổi bình-minh-đang-rạng trên đất nước. Hiện còn người vợ là bà Trần Nữ Hiệp và hai con trai Việt Bằng và Việt Thanh sống tại phường 12, quận Bình Thạnh – Sài Gòn. Khi xưa ông đã từng viết: “Như áng bụi mờ trong cơn lốc trên đối dốc đỏ, như lá xanh ngàn, như áng may dị thường bềnh bồng thênh thang” (Thư gửi cho vị thiên-thần-mặt-trời vàng rực rỡ 1973).
Bao nhiêu năm qua tôi vẫn mong ông như lá áng mây rực rỡ bay mãi vào không gian.
Nguyễn Quốc Đông (Trích trong : Sài Gòn Xanh Ký Ức)